Có 4 ý nghĩa quan trọng về sự thành đạo của Đức Phật:
1. Đức Phật đã chiến thắng Ma quân. 2. Đức Phật đã khai mở cửa bất tử cho tất cả chúng sanh. 3. Chứng minh mọi chúng sanh đều có khả năng Giác ngộ Giải thoát. 4. Con người là chủ nhân ông của chính mình.
Và có 3 giá trị thực tiễn về sự thành đạo của Đức Phật:
1. Đức Phật dạy phương pháp tu tập mang lại an lạc ngay trong hiện tại. 2. Đức Phật là nhà cách mạng đầu tiên về nhân quyền và bình đẳng. 3. Giáo lý Đức Phật có giá trị miên viễn.
Mỗi tôn giáo đều có những ngày kỷ niệm và những thánh tích về vị Giáo tổ sáng lập ra giáo phái hoăc tôn giáo đó. Phật giáo là một tôn giáo lớn, ngày nay được mọi người trên thế giới biết đến qua giáo lý và cuộc đời Đức Phật thích ca, Vị chánh đẳng giác ra đời tại nước Ấn Độ cách đây trên 25 thế kỷ. Đặc biệt vùng bắc Ấn đã lưu lại thánh tích của Ngài mãi cho đến ngày hôm nay. Đây là những chứng liệu được các nhà khảo cổ đã tìm ra và công bố cho mọi người biết về bốn thánh tích:
1. Vườn Lumbini nơi Đức Phật đã Đản sanh (ngày nay thuộc nước cộng hòa Nepal); 2.Bodhgaya (Bồ-đề Đạo Tràng) nơi Đức Phật thành đạo; 3. Lộc dã / uyển (Sarnath thuộc đô thị Varanasi) nơi Đức Phật chuyển pháp luân; 4. Kusinagar nơi Đức Phật nhập Niết-bàn.
Song song với bốn thánh tích là những ngày kỷ niệm vô cùng quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật đánh giá sự hiện diện của Thế Tôn trong cõi đời này. Đó là:
(1). Ngày Bồ-tát Hộ Minh từ cung trời Đâu-suất (Tusita) giáng trần: ngày rằm tháng 4 âm lịch năm 624 tr. TL.
(2). Ngày Thái tử Siddhata (Sĩ-đạt-ta) từ bỏ đời sống thế tục xuất gia: nhằm ngày mồng tám tháng 2 âm lịch năm 595 tr. TL. (Theo Bắc truyền thì năm 605).
(3). Ngày Đức Phật đã thành đạo, nhằm ngày mùng 8 tháng 12 âm lịch năm 589 tr. TL. (theo Bắc truyền năm 594 tr. CN)
(4). Ngày Đức Phật nhập niết bàn, nhằm ngày mùng tám tháng 12 âm lịch năm 544 tr. TL.
Tuy nhiên, theo truyền thống của Nam truyền thì bốn ngày trọng đại đã nêu trên cùng ngày rằm trăng tròn tháng 4, dĩ nhiên là khác năm.
Nhân kỷ niệm ngày Thế Tôn thành đạo cũng như nhập Niết-bàn, từ quê hương của Đấng cha lành, con thành kính đê đầu Đảnh lễ Đấng đại giác và xin ghi lại vài ý tưởng mộc mạc mà con đã học từ dòng sữa giáo pháp của Ngài.
I. Ý NGHĨA QUAN TRỌNG VỀ SỰ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
“Một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại Hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì Hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và Loài Người. Một người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, Bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Chính một người này, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại Hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì Hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và Loài Người.”
“Sự xuất hiện của một người, này các Tỷ-kheo, khó gặp được ở đời. Của người nào? Của Như lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác. Sự xuất hiện của một người này, này các Tỷ-kheo, khó gặp được ở đời.”(Tăng chi I phẩm Một người, tr. 28, xb. 1980).
1. Đức Phật đã chiến thắng Ma quân
Thái tử Siddhata nhận ra cảnh Vô thường tạm bợ của kiếp người bị chi phối bởi sanh, già, bệnh và chết nên đã quyết tâm từ bỏ đời sống vương tôn, phú quý, ngai vàng, điện ngọc, từ bỏ phụ hoàng, vợ đẹp con thơ, thân bằng quyến thuộc, một mình dấn thân vào chốn rừng sâu tầm cầu chân lý Giải thoát tứ khổ. Bước thử thách đầu tiên vô cùng cam go, là con người ai không ham phú quý, vinh hoa, ai không thích vợ đẹp con ngoan, nhưng với Thái tử thì những thứ trên là những gông cùm, xiềng xích trói chặc chân người Thế gian. Thái tử đã chiến thắng sự cám dỗ của Ma quân phú quý bằng cách nhận chân sự thật của cuộc đời vui ít khổ nhiều não hại lại nhiều hơn. Chỉ có bật đại trượng phu, đấng đại hùng như Thái tử mới đủ dũng chí xuất gia sống đời du sĩ giữa chốn núi non tự mình tầm cầu chân lý. Sau đây là đoạn trích Trong bài kinh “sợ hãi và khiếp đảm” được Đức Phật đã kể lại những nổi sợ hãi và khiếp đảm khởi sinh khi Ngài sống một mình trong rừng sâu.
Này Bà-la-môn, tùy thuộc vào vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau:”Trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu taị các cây cối, để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy.” Này Bà-la-môn, sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi Ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: “Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến !.” Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Sao Ta ở đây, chỉ mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt khiếp đảm ấy. “Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến,thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi,Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại ….
Nhờ nhiếp niệm, định tâm Thái tử đã nhiếp phục ‘Ma sợ hãi và khiếp đảm’ tâm an lạc, chuyên nhất, định tĩnh, ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thứ ba, thứ tư, … hướng tâm đến túc mạng trí, nhớ đến đời sống quá khứ từ một đời đến nhiều đời, từ một kiếp đến nhiều kiếp Thái tử đã chứng đạt túc mạng trí. Tuần tự Thái tử hướng tâm đến thiên nhãn trí, trí biết được sự sống chết và hạnh nghiệp của tất cả chúng sanh…và cuối cùng với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc bình thản, Thái tử dẫn tâm hướng tâm đến lậu tận trí. Ngài thắng tri như thật: “Đây là khổ,””dây là nguyên nhân của khổ,” “đây là Khổ diệt,” “đây là con đường đưa đến Khổ diệt.” Thắng tri như thật: “Đây là những lậu hoặc, đây là nguyên nhân các lậu hoặc, đây là các lậu hoặc diệt, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt”. Nhờ thấy như vậy, tâm Thái tử thoát khỏi dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Vượt qua tầm mắt của Ma vương, Thái tử chứng đạt Phật quả và trở thành Phật Thích-ca (Sakyamuni Buddha).
Trên đây chỉ nêu ra khái lược về cách nhiếp phục tâm, tu tập tâm để thành tựu quả vị Giải thoát. Trong bài Kinh Thánh Cầu (số 26 Trung bộ I, tr. 361-390, xb. 1992.) đã mô tả về tiến trình từ lúc Thái tử từ bỏ gia đình vào rừng rồi tu tập dưới hội chúng của Alara kalama rồi đến hội chúng của Uddka Ramaputta, vì không thỏa mãn với giáo pháp chưa rốt ráo Giải thoát của hai Vị đạo sư nên Thái tử từ giả họ rồi tiếp tục với pháp tu khổ hạnh cùng với năm người bạn đồng tu gồm A-nhã Kiều-trần-như và bốn người bạn khác, với tận tâm nổ lực nhưng Thái tử vẫn không thành tựu mục đích tối thượng và cuối cùng Thái tử tìm ra con đường tu tập trung đạo xuyên qua thiền định, quán chiếu sự vận hành của các pháp nhân duyên (Giáo lý duyên khởi) cuối cùng Thái tử đã Giác ngộ, Chứng đắc tam minh, lục thông, thóat ly sanh tử. Trải qua sáu năm dài khổ hạnh vượt qua muôn vàn cam go, thử thách Thái tử đã tìm ra con đường thoát khổ cho chính mình và nhân loại và từ đó danh hiệu Phật Thích-ca chỉ cho Bậc chánh đẳng chánh giác duy nhất trên Thế gian này.
Lại nữa, trong bài Kinh Phạm thiên Thỉnh Cầu Đức Phật đã tuyên bố với Ác ma:
“- Này Ác ma, Ta biết ngươi. Chớ có nghĩ rằng “Vị ấy (Thế Tôn) không biết Ta (Ác ma). “Này Ác ma, phàm là Phạm thiên, phàm là Phạm thiên chúng, phàm là Phạm thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của Ngươi. Này Ác ma, nếu Ngươi nghĩ rằng: “Mong vị này nằm trong tay Ta; mong vị này nằm trong quyền lực của Ta!.” Này Ác ma, Ta không nằm trong tay của Ngươi, Ta không nằm trong quyền lực của Ngươi.
Thông thường với tư duy nông cạn, chúng ta cho rằng Ma vương đã đến thách thức ngăn cản sự tu tập thiền định của Thái tử dưới cội bồ-đề trước khi Bồ-tát thành đạo và chỉ có một lần đó mà thôi. Nhưng trên thực tế, những chướng ngại pháp cả tâm lý và vật lý, cả khách quan và chủ quan có tác dụng cản trở trên bước tu tập tầm cầu Giải thoát của Bồ-tát đều được xem như là Ma quân, binh ma, Ác ma, nội ma, ngoại ma vượt qua tất cả mọi chướng ngại không phải dễ đòi hỏi một người đại hùng và đại lực mới có thể làm nổi.
Chính vì ý nghĩa trên, Bồ-tát chiến thắng Quân ma cũng có nghĩa là chiến thắng chính mình và chỉ có chiến thắng mình (những tâm lý bất thiện) mới là chiến thắng vinh quang, oanh liệt nhất (Thắng nhơn giả hữu lực, tự thắng giả cường).
2. Đức Phật đã mở cánh cửa bất tử cho tất cả chúng sanh
Đức Phật sau khi thành đạo, Ngài tiếp tục thiền định để chiêm nghiệm sự thâm sâu pháp Ngài vừa chứng đạt. Thế Tôn khởi lên suy nghĩ như sau: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái lạc, ham thích ái dục, thật khó mà thấy định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y tha duyên khởi pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta Thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!” (Kinh Thánh Cầu, tr. 375).
Quả thật, căn tính chúng sanh độn nhiều (chậm lụt, thiếu trí tuệ), lợi ít (thông minh, dễ thọ lãnh giáo pháp), giáo pháp Giải thoát quá cao siêu và xa la, ngược lại những tập khí Thế gian từ nhiều kiếp của họ vì thế thật không dễ cho Thế Tôn về về vấn đề thuyết giảng Chánh phápﮠTuy nhiên, với sự thỉnh cầu Thế Tôn Thuyết pháp của Phạm thiên Sahampati: “Bạch Thế Tôn, hãy Thuyết pháp! Bạch Thiện thệ, hãy Thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bị nguy hại nếu không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe Chánh pháp), những vị này có thể thâm hiểu Chánh pháp”.
Với lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, Thế Tôn nhìn quanh thế giới thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải Tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ sen trắng, sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước,sống vươn lên tới mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ước. Cũng vậy với Phật nhãn Thế Tôn thấy có hạng ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn có hạng độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải Tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Rồi Thế Tôn nói lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sahampati:
Cửa bất tử rộng mở, Cho những ai chịu nghe. Hãy từ bỏ Tín tâm, Không chính xác của mình. Tự nghĩ đến phiền tóai, Ta đã không muốn giảng, Tối thượng vi diệu pháp, Giữa chúng sanh Loài Người. (Ôi Phạm thiên)
Thế Tôn khai mở chân lý Giải thoát là một sự kiện trọng đại trong lịch sử Tôn giáo Ấn Độ thời bấy giờ. Vì rằng, từ trước thời Thế Tôn, Tôn giáo Ấn Độ chỉ mang hình thức nghi lễ do các Bà-la-môn tự xưng là thanh tịnh, thuần huyết thống, con của Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, căn cứ vào ba bộ Vệ đà để chủ trì những cuộc tế lễ mà họ cho rằng có công hiệu tiêu trừ tội lỗi, khổ đau, dẫn đến Giải thoát sanh thiên. Ngoài ra, Vô số các đạo sư ngoại đạo chủ trương những giáo điều và quan điểm có tác dụng dẫn đến rối loạn trật tự xã hội, băng hoại nền đạo đức, luân lý con người điển hình là Sáu đạo sư ngoại đạo cùng thời Đức Phật như Purana Kassapa chủ trương với thuyết vô nghiệp không có quả báo tội, phước. Makkhali Gosàla chủ trương thuyết luân hồi tịnh hóa, nghĩa là kẻ ngu và người hiền sau khi lưu chuyển luân hồi sẽ trừ tận khổ đau. Ajita Kesakambáli chủ trương thuyết đoạn diệt, con người do bốn đại hợp thành khi thân hoại sẽ trả về cho bốn đại (đất, nước, lửa, gió) không có gì tồn tại sau khi chết…(Kinh sa môn quả, Trường bộ I tr. 102- 112, xb. 1991).
Quả thật, một niềm khát khao của nhân loại tự cổ chí kim, đó là khát khao tầm cầu chân lý Giải thoát bốn ách nạn sanh, lão, bệnh và tử đè nặng lên đời sống con người. Vì vậy, giáo pháp Thế Tôn vừa chứng ngộ sẽ có công năng như ánh sáng của thái dương phá tan mọi bóng tối vô minh phủ lấp tâm, trí con người từ bao đời. Cuối cùng, Thế Tôn đã chân chánh khai mở chân lý bất tử, chân chánh chuyển bánh xe pháp, vì an lạc, vì Hạnh phúc cho Chư Thiên và Loài Người. Dưới đây là pháp ngữ đầu tiên Thế Tôn đã chuyển đến Năm anh em của Tôn giả Kiều trần như:
“Này các Tỷ-kheo, chớ có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A la hán, Chánh đẳng giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy, Ta Thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các ông không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục đích tối thượng của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, các ông sẽ an trú”.
Quả thật không bao lâu sau, năm vị đồng tu đều chứng đạt quả vị bất sanh, dưới sự hướng dẫn của Đức Phật.
Trong suốt 45 năm (Bắc truyền 49 năm) truyền bá giáo lý, Đức Phật và chư đệ tử của Ngài đã du hành khắp vùng bắc Ấn, từ thành thị phồn hoa đến làng mạc xa xôi hẻo lánh thuyết giảng chân lý đem lại an lạc cho mọi người, từ giới thượng lưu, quyền quý, vua chúa cho đến những người hạ tiện, cùng đinh của xã hội đều thấm nhuần giáo lý Giác ngộ.
3. Chứng minh mọi chúng sanh đều có khả năng Giác ngộ, Giải thoát
Bằng chứng hùng hồn từ Kinh điển để lại, một số chư vị đệ tử của Đức Phật là các vị Thiện nam tử xuất phát từ dòng dõi trâm anh, quý phái, các vị vì tầm cầu an lạc tối thượng đã quy y, xuất gia sống hành trì, tu tập dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, giáo pháp của Ngài và Tăng đoàn, đều chứng đạt cứu cánh Phạm hạnh. Chẳng những thế, ngay cả những người căn tánh mê muội như Bàn Đặc, thấp hèn như Upali (Ưu-ba-li) thợ hớt tóc, bần tiện như Ni đề nghề gánh phẩn, sống đời phóng túng làm nghề mại dâm như dâm nữ Ambabali (Liên Hoa Sắc?), tàn ác như Angulimala (Vô Não) …đều được Giác ngộ, Giải thoát sau khi nỗ lực, tu tập dưới sự hướng dẫn của Đức Phật. Điều này cho thấy, tất cả chúng sanh đều có khả năng Giác ngộ, Giải thoát như nhau (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh) nếu hành trì, tu tập theo lời dạy của Đức Phật.
4. Con người là chủ nhân ông của chính mình
Thái tử Siddhata, cũng như bao người khác, sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này, chỉ khác là Ngài nhận ra sự Vô thường trước cảnh sinh, lão bệnh và tử quá tạm bợ và mỏng manh của kiếp người nên đã xuất gia tu hành chứng ngộ đạo quả Giải thoát. Ngài đã khám phá ra, con người là chủ nhân của chính mình, con người thừa tự nghiệp của mình làm ra, con người tự mình tạo ra tội lỗi, tự mình làm cho mình thấp hèn, tự mình làm cho mình cao thượng chứ không phải vì dòng dõi, huyết thống, nguồn gốc hoặc một vị Thượng đế nào có thể làm cho con người thấp hèn hay cao thượng. Chính vì ý nghĩa này, Đức Phật, Ngài không bao giờ tự xưng là Bậc lãnh đạo Tăng đoàn mà khiêm tốn tự xem Mình như là Vị đạo sư (người hướng dẫn con đường) mà thôi.Vì Đức Phật không thể ban sự Giác ngộ cho bất cứ ai, ho ban phước, rửa tội cho bất cứ ai. Ngài thường khuyên chư vị Tỷ-kheo: “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, hãy nương tựa chính mình, đừng nương tựa một ai, hãy lấy giáo pháp làm Thầy”.
Lại nữa, vào canh cuối của đêm Thế Tôn thành đạo, “với tâm thuần tịnh Thế Tôn hướng tâm đến thiên nhãn trí, trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Thế Tôn thấy rõ rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các Bậc thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này thân hoại Mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, đọa xứ, Địa ngục. Còn chúng sanh nào làm những Thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các Bậc thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại Mạng chung, được sanh làm các thiện thú, Cõi trời, trên đời này.” Điều này chứng tỏ rằng: chính do hành động về thân, lời nói và ý nghĩ đưa con người đến kết quả khổ hoặc vui tùy vào tác ý của hành động.
II. GIÁ TRỊ THIẾT THỰC VỀ SỰ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
1. Đức Phật dạy phương pháp tu tập mang lại an lạc ngay trong hiện tại
“Vì đại sự nhân duyên Như Lai ra đời, vì sự lợi ích, an lạc cho Chư Thiên và Loài Người Như Lai xuất hiện ở đời” (Pháp hoa kinh). Bằng chứng rõ ràng, suốt 45 năm Thuyết pháp độ sanh, Thế Tôn giáo hóa vô số chúng sanh thấm nhuần giáo lý, thể nhập sự an lạc, thanh tịnh ngay trong đời sống hiện tại. Giáo lý ứng dụng cho mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi trình độ,mọi xã hội, giáo lý của mọi thời đại.
Một hôm vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) từ Nangaraka đến thị trấn Medalumpa của dân chúng Sakka để yết kiến Thế Tôn. Khi gặp Thế Tôn nhà vua cúi đầu Đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn xung quanh chân Thế Tôn, tay xoa rờ xung quanh chân và tự xưng tên: – Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala.
Thế Tôn hỏi: “Thưa Đại vương, do thấy nguyên nhân gì, Đại vương lại hạ mình tột bực như vậy đối với Thân này và biểu lộ thân ái như vậy?”.
– … Bạch Thế Tôn, con có pháp truyền thống (Dhammanvaya) này đối với Thế Tôn. “Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chư Tăng đệ tử Thế Tôn khéo tu tập, hành trì.”…. Lại nữa, Bạch Thế Tôn, con đi du hành tản bộ từ công viên này đến công viên khác, từ cung uyển này đến cung uyển khác. Ở đấy con thấy một số Sa môn, Bà-la-môn gầy còm, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Thật sự các bậc Tôn giả này sống Phạm hạnh không được hoan hỷ hay có những ác nghiệp được giấu kín. Do vậy, các vị Tôn giả này mới gầy mòn…. Con đi đến các vị AṠ và hỏi:
– “Vì sao chư Tôn giả lại gầy mòn, khốn khổ, da xấu…. Hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn?”
Các vị ấy trả lời như sau:
– “Tâu Đại vương, chúng tôi bị bệnh gia truyền”.
Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỳ-kheo hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh, sống dựa vào (sự hỷ cúng) của người khác, với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Thật sự các bậc Tôn giả này ý thức được một sự tối thắng thù diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự nên các Tôn giả này hân hoan, phấn khởi…., với tâm tư như con thú rừng. Bạch Thế Tôn đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn. (Kinh Pháp Trang Nghiêm, Trung Bộ II, tr. 616-618, xuất bản năm 1992).
Câu chuyện trên cho thấy rằng, giáo pháp của Thế Tôn có công năng Giải thoát phiền não khổ đau ngay trong hiện tại.
Ngày nay, nhiều trung tâm tu thiền của Phật giáo ở khắp mọi nơi trên thế giới đã và đang đóng góp vào vào phận sự giải tỏa những căn thẳng thần kinh, suy sụp tinh thần, khủng hoảng tinh thần của con người do xã hội vật chất của thời đại gây ra. Ấy không phải công năng và diệu dụng của giáo lý Đức Phật hay sao!?
2. Đức Phật là nhà cách mạng đầu tiên về nhân quyền và bình đẳng
Đức Phật là nhà cách mạng nhân quyền và bình đẳng đầu tiên của nhân loại, Ngài dõng mãnh phá bỏ truyền thống phân chia giai cấp lâu đời của giai cấp Bà-la-môn nhằm củng cố quyền lợi và địa vị thời bấy giờ. Ngài tuyên bố hùng hồn: “không có giai cấp khi nước mắt mọi người đều mặn và máu đều đỏ như nhau.” Chủ nghĩa bình đẳng được thể hiện rõ trong giới luật và đời sống Tăng đoàn, tiêu biểu nhất là sáu pháp lục hòa là thước đo trung thực nhất về tính bình đẳng nhất quán được áp dụng trong đời sống sinh hoạt của Tăng đoàn.
Lại nữa, nguồn gốc xuất thân và địa vị theo phân chia của Thế gian không có trong Tăng Đoàn của Ngài. Mọi người khi vào Tăng đoàn đều phải từ bỏ tất cả sự phân biệt của thế thường mà phải cử xử theo pháp và luật của tăng đoàn. Điều này cho thấy Đức Phật từ bi quảng đại đối xử mọi người bằng lòng bình đẳng. Sau đây là đoạn kinh tiêu biểu cho tinh thần này: “Này các Tỷ-kheo, tất cả nước các sông, suối, ngòi, lạch khi chưa đổ nước ra biển nó mang tên riêng của nó, nhưng khi đã đổ nước ra biển nó mang tên chung là nước đại dương chứ không còn mang tên riêng của nó như trước kia nữa. Cũng như vậy, khi các Tỷ-kheo khi gia nhập vào Tăng đoàn sẽ không còn mang tên họ như trước đây nữa mà mang tên chung là chư vị khất sĩ, Thích tử của Như Lai.”
Đỉnh cao của bình đẳng và nhân quyền là năm giới cho người tín đồ tại gia, là năm tiêu chuẩn mẫu mực tạo nền móng đạo đức, Hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội, sâu xa hơn nữa là thềm bậc để bước đến đời sống xuất gia Giải thoát thanh cao.
3. Giáo pháp của Đức Phật có giá trị miên viễn sơ thiện, trung thiện và hậu thiện
Này các Tỷ-kheo: “Nước của đaị dương chỉ có một vị là vị mặn, cũng vậy pháp và luật này chỉ có một vị là vị Giải thoát.” (Cảm Hứng Ngữ: Udana) trong một bài kinh khác Đức Phật tuyên bố: “Này các Tỷ-kheo xưa cũng như nay Như Lai chỉ thuyết về khổ và con đường diệt khổ”.
Lại nữa, trong Di giáo kinh, trước khi Thế Tôn vào Niết-bàn Ngài đã hỏi chư vị Khất sĩ có còn điểm nào còn nghi ngờ hoặc chưa hiểu về giáo pháp hãy trình lên để Thế Tôn sẽ tùy nghi giảng giải.
Chư Tỷ-kheo im lặng, Tôn giả Anan đại diện đại chúng bạch Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn tất cả đại chúng im lặng vì không có Vị nào còn nghi ngờ hoặc chưa hiểu giáo lý. Thế Tôn, cho dù mặt trăng trở nên nóng và mặt trời trở thành lạnh; giáo pháp Thế Tôn thuyết giảng cũng không bao giờ thay đổi giá trị và nghĩa lý”.
Thật vậy, theo dòng thời gian, đã hơn 25 thế kỷ qua, nhưng chân lý tứ đế vẫn sáng ngời không hề sê dịch nghĩa lý bởi vì giáo pháp được Bậc Giác ngộ tự thân chứng tri, tự thân liễu tri. Đó là giáo pháp mang tính miên viễn sơ thiện, trung thiện và hậu thiện.
Ngày nay, nhân loại đang trong cơn băng hoại và suy thoái đạo đức trước sự cảm dỗ của vật chất hiện đại. Đã đến lúc mọi người cần phải quay lại chính mình và ứng dụng lời dạy của Đức Phật trong đời sống thường nhật. Đây là con đường duy nhất để mọi người cùng thăng tiến đạo đức tâm linh và tránh xa nạn hủy diệt văn hóa, văn minh và sự sinh tồn của nhân loại.
Tỳ kheo THÍCH MINH DIỆUhttps://thuviengdpt.info/tieu-diem-su-kien/su-kien-phat-giao/dac-biet-thanh-dao/y-nghia-phat-thanh-dao-va-cac-gia-tri-thuc-tien/