7) Ở đây, này [[ANanda, Tỷ-kheo sống, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán thân trên thân, hoặc thân sở duyên (kàyàrammano) khởi lên, hoặc thân Nhiệt não (kàyasmin parilàho), hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán hướng ngoại (bahiddha va cittam vikkhipati); do vậy, này [[ANanda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín (pasàdaniyenimitta). Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan (pàmujjam: Thắng hỷ) sanh. Người có tâm hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có tâm khinh an, lạc thọ sanh. Người có tâm lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: “Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay ta rút lui (patisamharàmi) (khỏi đối tượng tịnh tín)”. Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: “Không tầm, không tứ, nội tâm Chánh niệm, ta được an lạc”.

8-9) Lại nữa, này [[ANanda, Tỷ-kheo sống, quán thọ trên các thọ… sống, quán tâm trên tâm…

10) Vị ấy sống, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Vị ấy trú, quán pháp trên các pháp, hoặc thân sở duyên khởi lên, hoặc thân Nhiệt não, hoặc tâm thụ động, hoặc tâm phân tán, hướng ngoại; do vậy, này [[ANanda, Tỷ-kheo cần phải hướng tâm đến một tướng tịnh tín. Do vị ấy hướng tâm đến một tướng tịnh tín, hân hoan sanh. Người có hân hoan, hỷ sanh. Người có tâm hỷ, thân được khinh an. Người có thân khinh an, lạc thọ sanh. Người có lạc thọ, tâm được định tĩnh. Vị ấy tư sát như sau: “Mục đích mà ta hướng tâm đến, mục đích ấy đã đạt được. Nay ta rút lui (khỏi đối tượng tướng tịnh tín)”. Vị ấy rút lui, không tầm, không tứ. Vị ấy rõ biết: “Không tầm, không tứ, nội tâm Chánh niệm, ta được an lạc”.

11) Như vậy, này [[ANanda, là sự tu tập về hướng tâm.

12) Và này [[ANanda, thế nào là sự tu tập không có hướng tâm?

13) Này [[ANanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết: “Tâm ta không hướng ngoại”. Rồi vị ấy rõ biết: “Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở sau (pacchàpure), nhưng được Giải thoát, không có hướng tâm”. Rồi vị ấy rõ biết: “Ta trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc”.

14) Này [[ANanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết: “Tâm ta không hướng ngoại”. Rồi vị ấy rõ biết: “Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở trước, hay cái gì ở sau, nhưng được Giải thoát, không có hướng tâm”. Rồi vị ấy rõ biết: “Ta trú, quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc”.

15) Này [[ANanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại, rõ biết: “Tâm ta không hướng ngoại”. Rồi vị ấy rõ biết: “Tâm ta không chấp thủ đối với cái gì ở trước… Rồi vị ấy rõ biết: “Ta trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc”.

16) Này [[ANanda, Tỷ-kheo tâm không hướng ngoại… Rồi vị ấy rõ biết: “Ta trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, Chánh niệm, ta được an lạc”.

17) Như vậy, này [[ANanda, là tu tập không có hướng tâm.

18) Như vậy, này [[ANanda, Ta thuyết tu tập có hướng tâm; Ta thuyết tu tập không có hướng tâm. Những gì, này [[ANanda, một bậc Ðạo Sư cần phải làm vì Hạnh phúc, vì lòng thương tưởng đối với các đệ tử, vì lòng từ mẫn khởi lên, những việc ấy, Ta đã làm cho các Ông. Này [[ANanda, đây là những gốc cây. Ðây là những nhà trống. Hãy tu Thiền, này [[ANanda. Chớ có phóng dật. Chớ có hối hận về sau. Ðây là lời giáo giới của Ta cho các Ông.

19) Thế Tôn thuyết giảng như vậy, Tôn giả [[ANanda hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Xem chi tiết:

Kinh Tương Ưng – Tập V – Thiên Ðại Phẩm – Chương III – Tương Ưng Niệm Xứ (a)